Điều 353 Bộ Luật hình sự quy định Tội tham ô tài sản như sau:
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng ;
g) Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
6. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.
Theo quy định trên, Tội Tham ô tài sản có khung hình phạt khá nghiêm khắc, mức cao nhất có thể lên tới tử hình. Vậy ai có thể là đối tượng phạm tội và việc định tội danh, khung hình phạt được quy định thế nào? Sau đây là một số nội dung có bản của tội danh này.
Chủ thể của tội phạm : Tham ô tài sản là tội danh có chủ thể đặc biệt, nghĩa là người phạm tội phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn có thể do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Chủ thể của tội tham ô tài sản không chỉ phải là người có chức vụ quyền hạn, mà họ phải là người có trách nhiệm quản lý đối với tài sản mà họ chiếm đoạt. Nếu họ tuy có chức vụ nhưng không có trách nhiệm quản lý tài sản thì không phạm tội này.
văn phòng luật sư
Người có trách nhiệm đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý như: Thủ kho, thủ quỹ, kế toán, người được giao vận chuyển…Ngoài ra, những người tuy không được giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng có quyền hạn, trách nhiệm trong việc quản lý thu chi, mua bán, trao dổi hoặc là người có quyền quyết định về tài sản của cơ quan, tổ chức mình cũng là chủ thể của tội phạm này
công ty luật
Hành vi phạm tội : Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là hành vi người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản. Chức vụ, quyền hạn phải là điều kiện để người phạm tội thực hiện việc chiếm đoạt; nếu họ không lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì không thể thực hiện được việc chiếm đoạt. Do vậy, nếu hành vi chiếm đoạt của họ không liên quan đến chức vụ, quyền hạn của họ thì không phạm tội tham ô tài sản.
luật sư bào chữa
Hành vi chiếm đoạt tài sản có thể được thức hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như: thủ quỹ tự lấy tiền trong két, thủ kho tự lấy tài sản trong kho đem bán, giám đốc lệnh cho thủ quỹ đưa tiền cho mình, kế toán lập phiếu thu, chi, chuyển khoản theo lệnh của người phạm tội….Việc chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm hữu, sử dụng được tài sản đó.
luật sư hình sự
Thực tiễn xét xử cho thấy, trong quá trình hoạt động, nhiều doanh nghiệp, đơn vị đã phải chi một khoản tiền không đúng với quy định của Nhà nước. Khi chi những khoản tiền này, người lãnh đạo thường không nói lý do cho nhân viên dưới quyền mục đích của việc chi tiêu, hoặc chỉ nói chung chung là chi “tiếp khách”, “chăm sóc khách hàng”, “đối ngoại” v.v…Trong các khoản chi sai nguyên tắc có không ít khoản giám đốc doanh nghiệp bỏ túi. Khi vụ án bị phát hiện, thông thường tất cả các khoản chi sai đều bị quy kết là chiếm đoạt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản. Việc quy kết chiếm đoạt toàn bộ số tiền chi sai là không chính xác, vì có thể họ chỉ chiếm đoạt một phần số tiền chi sai.
Ý thức chủ quan của người phạm tội: Để truy cứu Tội Tham ô tài sản, các Cơ quan tố tụng cần phải chứng minh được người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp, vì người phạm tội phải mong muốn chiếm đoạt được tài sản thì mới phạm tội này. Mục đích chiếm đoạt tài sản phải có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt. Tuy nhiên, trường hợp người phạm tội tuy không chiếm đoạt tài sản, nhưng chấp nhận mục đích chiếm đoạt tài sản của đồng phạm khác (vì những mục đích khác nhau) thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội Tham ô tài sản.
luật sư giỏi
Tình tiết định khung : Cấu thành cơ bản của Tội Tham ô tài sản quy định tại Khoản 1, Điều 353 Bộ Luật hình sự có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù. Ngoài ra, còn có nhiều tình tiết định khung khác, mà nếu thuộc một trong các trường hợp này thì người phạm tội sẽ bị truy cứu ở các Khoản khác có mức hình phạt cao hơn. Cụ thể:
Tình tiết “Có tổ chức” quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 353 Bộ Luật hình sự.
Tham ô tài sản có tổ chức là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ, phân công, sắp đặt vai trò của những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án nào cũng có đủ những người giữ vai trò trên, mà tùy từng trường hợp có thể không có người xúi giục, người giúp sức, nhưng nhất định phải xác định được người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức.
Tình tiết “Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm” quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 353 Bộ Luật hình sự.
Dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp là trường hợp người phạm tội sử dụng công nghệ cao hoặc thủ đoạn gian dối, mánh khóe khác để phạm tội, để tiêu hủy chứng cứ, che giấu hành vi phạm tội, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm (vd: sử dụng hóa chất đăc biệt để sửa chứng từ, tạo hiện trường giả v.v…). Dùng thủ đoạn nguy hiểm được hiểu là thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của người phạm tội gây nguy hiểm cho tài sản, tính mạng, sức khỏe con người (vd: đốt kho, đốt nhà để phi tang v.v…).
Tình tiết “Phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 353 Bộ Luật hình sự.
“Phạm tội 2 lần trở lên” là trường hợp mỗi lần tham ô tài sản đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội 2 lần trở lên nếu tất cả các lần phạm tội đều cấu thành tội tham ô tài sản và chưa bị xử kỷ luật, xử lý hành chính hoặc chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đã có lần bị xử kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, hoặc đã hết thời hiệu thì không được tính là phạm tôi tham ô tài sản từ 2 lần trở lên.
Tình tiết “Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn” quy định tại Điểm đ, Khoản 2, Điều 353 Bộ Luật hình sự.
Tình tiết này bao gồm nhiều nội dung khác nhau nên trong vụ án cụ thể, người phạm tội có tình tiết nào thì áp dụng nội dung của tình tiết đó chứ không áp dụng toàn bộ. Khi áp dụng cần chú ý mỗi nội dung quy định tại Điểm đ, Khoản 2 đều phải cấu thành Tội tham ô tài sản; nếu có một tình tiết chưa cấu thành tội tham ô tài sản thì không áp dụng tình tiết phạm tội đó.
Tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại Điểm c, Khoản 3, Điều 353 Bộ Luật hình sự.
Tình tiết này không nhất thiết tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị tài sản lớn, có thể nhỏ nhưng làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, khu vực nơi xảy ra hành vi phạm tội (ví dụ: do hành vi phạm tội dẫn đến việc người dân khiếu kiện bức xúc, tập trung đông người gây ách tắc giao thông, mất an ninh, trật tự). Đây là tình tiết khó định lượng, cần phải đánh giá tổng hợp nhiều mặt của đời sống xã hội mới có thể xác định được.
Tình tiết “Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động” quy định tại Điểm d, Khoản 3, Điều 353 Bộ Luật hình sự.
Khi xác định tình tiết này cần chú ý là doanh nghiệp, tổ chức bị phá sản, ngừng hoạt động không phải là doanh nghiệp, tổ chức mà người phạm tội công tác, làm việc. Nếu chỉ doanh nghiệp, tổ chức mà người phạm tội công tác, làm việc bị phá sản, ngừng hoạt động thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Chính vì vậy mà điều luật quy định “Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động” chứ không quy định “Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức bị phá sản hoặc ngừng hoạt động”.
Vấn đề quan trọng đặc biệt khi áp dụng tình tiết này là phải xác định được nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp, tổ chức khác bị phá sản, ngừng hoạt động. Các cơ quan tố tụng phải chứng minh được hành vi tham ô tài sản là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến doanh nghiệp, tổ chức khác bị phá sản, ngừng hoạt động. Nếu không chứng minh được thì không được áp dụng tình tiết này.
Ngoài những tình tiết định khung có tính đặc thù nêu trên thì phần lớn các tình tiết định khung khác của Tội Tham ô tài sản đều dựa vào giá trị “tài sản bị chiếm đoạt” hoặc giá trị “thiệt hại về tài sản” do hành vi phạm tội gây ra.
Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định theo số tiền mà người phạm tội chiếm đoạt. Nếu tài sản bị chiếm đoạt không phải là tiền thì giá trị tài sản được xác định theo giá thị trường tại thời điểm phạm tội.
Đối với tình tiết “Gây thiệt hại về tài sản” được hiểu là những thiệt hại (khác) do hành vi tham ô gây ra, nó không bao gồm số tiền, tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt. Thiệt hại này cũng phải do hành vi phạm tội gây ra, nếu Cơ quan tố tụng không chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và thiệt hại xảy ra thì hành vi phạm tội không được coi là “Gây thiệt hại về tài sản”.