1. Hành vi khách quan
Khoản 1, Điều 136, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”
Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản, nhưng căn cứ vào khái niệm, vào các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản thì người phạm tội cướp giật tài sản có những hành vi sau:
Giật tài sản luật sư
Có thể nói, đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi giật , tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng (ngay tức khắc). Chính vì hành vi giật tài sản đã bao gồm bản chất của tội cướp giật nên nhà làm luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật trong cấu thành cũng là điều dễ hiểu. Cũng tương tự như vậy, nhiều tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự nhà làm luật không mô tả hành vi khách quan của cấu thành như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản... nhưng chúng ta dễ nhận thấy bản chất của hành vi phạm tội.
luật sư giỏi
Thông thương, hành vi giật tài sản một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản ( người đang quản lý tài sản) làm cho những người này không có khả năng giữ được tài sản đang quản lý.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội muốn tạo ra yếu tố bất ngờ đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản nhưng thủ đoạn phạm tội không làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản bị bất ngờ nên người phạm tội không thực hiện được hành vi giật tài sản.
Thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp lúc đầu người phạm tội chỉ có ý định giật tài sản nhưng trong quá trinh thực hiện hành vi giật bị chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản chống cự giữ lấy hoặc giằng lại tài sản, nên người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi phạm tội của người phạm tội không còn là hành vi cướp giật tài sản nữa mà hành vi này đã là hành vi cướp tài sản . Khoa học pháp lý coi trường hợp phạm tội này là sự chuyển hoá từ tội này sang tội khác. luat su uy tin
Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách công khai, tức là không có ý thức che giấu hành vi của mình đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản và những người khác. Đây cũng là một đặc trưng để phân biệt với những trường hợp phạm tội khác như hành vi trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản không có tính công khai, trắng trợn. Ví dụ: Vũ Ngọc A là tên đã có nhiều tiền án, tiền sự, chuyên trộm cắp ở nơi đông người. Tối ngày 1-5-2001, A đến trước rạp Xiếc Hà Nội, vì là ngày lễ, nên mọi người xếp hàng mua vé vào xem xiếc rất đông, chen lấn nhau trước cửa bán vé. Lợi dụng lúc mọi người chen lấn, không chú ý đến tài sản, A đã khéo léo bật khoá dây đồng hồ của anh Hoàng Quốc D đang đeo trên tay làm đồng hồ của anh D rơi xuống đất để A nhặt. Khi đồng hồ bị rơi, mặc dù đang bị chen lấn nhưng anh D vẫn phát hiện được hành vi của A nên đã túm được tay A và lấy lại được đồng hồ. Khi thảo luận về vụ án này, nhiều ý kiến cho rằng A phạm tội cướp giật tài sản vì đang có hành vi công khai trắng trợn gỡ đồng hồ trên tay anh D trong lúc anh D không để ý vì đang bị chen lấn. Tuy nhiên, ý kiến này không phản ảnh đúng ý thức chủ quan cũng như hành vi khách quan của A. Bởi lẽ, A chỉ lợi dụng chỗ đông người đang chen lấn nhau để thực hiện hành vi phạm tội mà A cho rằng không bị phát hiện, A không có có ý định cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản biết được hành vi phạm tội của mình. Khi thực hành vi, A cũng cho rằng anh D không biết bị gỡ đồng hồ và trong hoàn cảnh này nếu anh A có phát hiện được bị rơi đồng hồ thì cũng chi nghĩ rằng do chen lấn nên đồng hồ bật ra chứ không thể cho rằng bị người khác gỡ. Đối với anh D và đối với mọi người A đều có ý thức giấu diếm hành vi của mình, nên hành vi của A chỉ là hành vi trộm cắp tài sản chứ không phải là cướp giật tài sản. tim luat su
tìm luật sư thue luat su thuê luật sư
Tính chất công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật chứ không phải công khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản về thân phận của người phạm tội. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi vào ban đêm hay có những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản không nhận được mặt như đeo mặt nạ, hoá trang... thì hành vi phạm tội vẫn là hành vi cướp giật.
Để thực hiện hành vi giật tài sản, người phạm tội có thể sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau như: lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản không chú ý bất ngờ giật lấy tài sản, lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản đang bị vướng mắc hoặc đang điều khiển phương tiện giao thông để giật tài sản... Trong các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng, có những thủ đoạn nếu không xem xét một cách toàn diện sẽ dễ bị nhầm lẫn với các tội phạm khác gần kề như tội cướp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc với cả tội trộm cắp tài sản. Thủ đoạn phạm tội cướp giật tài sản cũng chính là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt tội cướp giật tài sản với các tội phạm khác gần kề. Các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng dễ nhầm với hành vi phạm tội khác thường là: luật sư doanh nghiệp
- Dùng thủ đoạn chen lấn, xô đẩy người giữ tài sản để người này không chú ý đến tài sản nên A mới giật được tài sản rồi tẩu thoát, nếu chỉ căn cứ vào một vài hành vi tác động đến thân thể sở hữu chủ thì có thể nhầm với hành vi phạm tội cướp tài sản, thực chất trờng hợp này A chỉ dùng thủ đoạn để cướp giật mà không có ý định đương đầu với sở hữu chủ;
- Lợi dụng chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vướng mắc, không có khả năng đuổi bắt hoặc giằng giật lại tài sản để chiếm đoạt tài sản như: Lợi dụng người bán hàng xén đang bán hàng cho khách, người phạm tội đã lấy một thứ hàng trong rạp hàng rồi bỏ chạy, trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi cong nhiên chiếm đoạt tài sản;
- Người phạm tội có thể dùng thủ đoạn có vẻ như đe doạ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như: Giả làm cán bộ quản lý thị trường đến kiểm tra hàng rồi bất thần giật tài sản hoặc tạo điều kiện cho đồng phạm khác giật tài sản rồi tẩu thoát, trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi cưỡng đoạt tài sản;
- Người phạm tội cũng có thể dùng thủ đoạn gian dối để tiếp cận gần chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản rồi giật tài sản của họ như: Giả vờ đổi mật gấu lấy nhẫn, khi người có nhẫn tháo nhẫn để trong lòng bàn tay cho người phạm tội xem, lợi dụng người có nhẫn không để ý, người phạm tội đã lấy nhẫn rồi bỏ chạy, trường hợp phạm tội này dễ nhầm với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
- Người phạm tội cũng có thể dùng thủ đoạn lén lút để tiếp cập chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản rồi bất ngờ giật tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như: Bí mật đột nhập từ phía sau chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đang ngồi nghỉ trên một chiếc ghế trong Công viên, rồi bất thần giật chiếc hoa tai của người này rồi bỏ chạy, trường hợp này dễ nhầm với hành vi trộm cắp tài sản.
Vấn đề đặt ra là, chạy trốn có phải là dấu hiệu bắt buộc của tội cướp giật tài sản không? Đây là vấn đề về lý luận cũng nhưng thực tiễn còn có những quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, đặc điểm của tội cướp giật tài sản là người phạm tội hành động trong thế yếu, nếu không bỏ chạy thì sẽ bị bắt ngay, nên dấu hiệu chạy trốn phải là dấu hiệu bắt buộc, nếu người phạm tội không tẩu thoát thì không cấu thành tội cướp giật.
- Quan điểm thứ hai lại cho rằng, chạy trốn là một đặc trưng của hành vi phạm tội cướp giật tài sản nhưng nó không phải là dấu hiệu bắt buộc, vì thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp người phạm tội sau khi giật được tài sản đã không chạy trốn mà có thể đứng tại chỗ hoặc bỏ đi một cách bình thường nhưng người bị hại không thể đuổi bắt hoặc giằng lại tài sản. Ví dụ: Trong đám đông, A đã giật chiếc đồng hồ của B, sau khi giật được đồng, A liền đưa cho đồng bọn của mình là C giấu vào túi quần, B nhìn thấy A giật đồng hồ của mình, nhưng A lại chối ngay rằng B vu oan cho mình vì B không thấy A còn giữ đồng hồ.
Như vậy, chạy trốn chỉ là một đặc trưng của tội cướp giật tài sản chứ không phải là dấu hiệu bắt buộc, người phạm tội có chạy trốn hay không cồng phải tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nếu như trong hoàn cảnh nhất định người phạm tội thấy không cần phải chạy trốn mà vẫn không bị bắt thì họ không cần phải chạy trốn vẫn không bị lộ tung tích của mình.
1. Hậu quả
Hậu quả của tội cướp giật tài sản trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc những thiệt hại khác. mặc dù điều văn của điều luật không quy định, nhưng về lý luận tội cướp giật tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, do đó, chỉ khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nếu có hành giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tội cướp giật tài sản là tội phạm nghiêm trọng nên nhà làm luật không quy định mức tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu cấu thành tội phạm như đối với các tội khác như tội trộm cắp, tội công nhiên chiếm đoạt, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản... Do đó người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị lớn hay chỉ có giá trị rất nhỏ (hoa tai giả, dây chuyền giả) vần là phạm tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, nếu chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn thì thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của Điều 136 tuỳ theo giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
luật sư bào chữa
Các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc các thiệt hại khác là những dấu hiệu định khung tăng nặng của tội cướp giật tài sản. Ví dụ: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, từ 31% đến 60% thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, từ 61% trở lên thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 của Điều 136 Bộ luật hình sự.
Trích "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự"
Ths. Nguyễn Đan Quế