Sau khi ban hành Hiến pháp 1946 được 13 năm thì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành luật Hôn nhân và Gia đình 1959 (sau đây gọi tắt là luật HN&GĐ), luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 13 tháng 01 năm 1960. Là một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất; luật HN&GĐ năm 1959 ra đời đánh dấu một bước phát triển, tiến bộ vượt bậc trong công tác lập pháp của nước ta.[1] Đến năm 1986, luật HN&GĐ mới được ban hành thay thế cho luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959. Luật HN&GĐ năm 1986 đã ghi nhận nhiều quy định tiến bộ, góp phần xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu và tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến; trong đó ghi nhận chỗ ở của vợ chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc về phong tục tập quán[2] và con có quyền sở hữu tài sản riêng (bao gồm con chưa thành niên và con đã thành niên)[3]. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các quan hệ xã hội mới phát sinh, luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 đã bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn. Đến năm 2000, Quốc hội nước ta đã thông qua luật Hôn nhân và Gia đình mới thay thế luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có 13 chương, 110 điều và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001. Bên cạnh việc phát huy những điểm tích cực góp phần vào xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc thì những quy định của luật HN&GĐ năm 2000 vẫn tồn tại những điểm bật cập. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích thực trạng bất cập của chế định ly hôn trong luật HN&GĐ năm 2000 và cuối cùng là một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này.
1. Thực trạng quy định của pháp luật về ly hôn và những bất cập
1.1 Quy định của pháp luật về ly hôn
Chế định ly hôn trong luật HN&GĐ năm 2000 có 15 điều (từ điều 85 đến điều 99) được quy định tại chương X. Vấn đề ly hôn cũng được ghi nhận tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật Hôn nhân và Gia đình (được quy định từ điều 23 đến điều 30) và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Ngoài ra, tại điều 42 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định về quyền ly hôn của cả vợ, chồng “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn”[4], tuy nhiên, quy định của pháp luật trong việc xác định, phân chia tài sản chung, riêng của vợ, chồng khi ly hôn và quyền được nuôi, thăm con sau khi ly hôn trong thực tiễn còn nhiều bất cập.
1.2 Bất cập trong việc xác định tài sản chung, riêng của vợ chồng khi ly hôn
Theo khoản 3 điều 27 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”[5]. Quy định này trao cho thẩm phán quyền được suy luận trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn để phân định tài sản chung, riêng của vợ, chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng của mình thì đương nhiên là tài sản chung. Thực tế thì nguyên tắc này chỉ có tính chất định hướng trong việc giải quyết các tranh chấp của vợ chồng về nguồn gốc tài sản. Bất cập của quy định này là thẩm phán có quyền dùng phương pháp suy luận loại trừ dựa trên cơ sở chứng cứ mà vợ, chồng có hoặc không có trước tòa; mà đã là suy luận thì không thể khẳng định chắc chắn là có sự chính xác tuyệt đối. Do đó, quy định này không những gây khó khăn cho vợ hoặc chồng trong việc chứng minh tài sản riêng trước tòa trong vụ án ly hôn mà còn cho người thứ ba có liên quan trong các giao dịch về tài sản. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chỉ căn cứ vào chứng cứ để xác định tài sản chung, riêng của vợ chồng mà chưa căn cứ vào ý chí thể hiện của các bên. Do đó, trong thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn, tòa án các cấp còn gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, trong vụ án ly hôn của chị NTBT tại thị xã Rạch Giá (Kiên Giang)[6]. Tài sản tranh chấp là một mảnh đất diện tích hơn 360 m2. Năm 1998, cha mẹ chị T. lập di chúc cho chị phần đất này. Sau đó vợ chồng chị xây hai căn nhà cùng một số công trình phụ trên đất. Năm 2002, cha mẹ chị T. đã thay thế bản di chúc bằng việc lập hợp đồng ghi rõ là cha chị T. chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị. Một năm sau, UBND thị xã Rạch Giá cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng chị T. Khi giải quyết vụ ly hôn và chia tài sản của vợ chồng chị T., tòa hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định mảnh đất là tài sản riêng của chị T. Sau đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Giám đốc thẩm yếu cầu hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm để giải quyết lại việc phân chia tài sản trong vụ ly hôn của vợ, chồng chị T. Và Tòa án nhân dân tối cao lập luận rằng dù chứng cứ thể hiện là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của cha mẹ chị T cho chị T; nhưng sau đó chị T đã thể hiện ý chí sáp nhập thửa đất này vào khối tài sản chung của vợ chồng qua việc đồng ý cho chồng cùng đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, thửa đất là tài sản chung.
Một bất cập nữa trong luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 là luật không quy định tòa án phải có trách nhiệm xác minh trong trường hợp lời khai của các đương sự khác nhau về nguồn tiền để tạo lập tài sản trong các vụ án ly hôn trong việc xác định tài sản chung, riêng. Ví dụ, vụ ly hôn của vợ chồng ông ĐTN và tranh chấp một lô đất đang đứng tên ông N.[7] Người vợ khai chồng mua đất lúc nào bà không biết, chỉ khi trong nhà thiếu đi một khoản tiền, bà mới hay là chồng đã lấy đi mua đất. Do đó mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng. Ngược lại, ông N. khai nguồn tiền mua đất là của mẹ ông. Mẹ ông N. thì khai năm 2003, bà đưa 90 triệu đồng nhờ con trai mua giùm lô đất trên. Tại cấp sơ thẩm, Tòa án nhân dân TP. Tam Kỳ không công nhận lô đất là tài sản chung của vợ chồng ông N. Cấp phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã sửa án sơ thẩm, công nhận lô đất này là tài sản chung.
Trong vụ án ly hôn này, theo chánh án TAND Tối cao, lời khai của các đương sự rất khác nhau về nguồn tiền mua đất nhưng không bên nào xuất trình được đầy đủ chứng cứ chứng minh. Lẽ ra, các cấp tòa cần phải thu thập thêm chứng cứ để làm rõ thời điểm mua đất, mua của ai, quá trình sử dụng, đăng ký, kê khai. Về nguồn tiền mua, các cấp tòa cũng cần phải xác minh công việc, nguồn thu nhập của các bên cũng như độ chính xác trong lời khai của mẹ ông N. Do không chịu thu thập chứng cứ để làm rõ, mỗi cấp tòa có một quyết định khác nhau nhưng đều chưa đủ căn cứ và thiếu tính thuyết phục.[8] Trong khi đó, luật Hôn nhân và Gia đình không có quy định nào bắt buộc tòa án phải có nghĩa vụ tiến hành xác minh trong trường hợp phân chia tài sản chung, riêng nếu xét thấy chứng cứ của các bên không có cơ sở hoặc không có chứng cứ để chứng minh. Do đó, trong thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn, tòa án chỉ căn cứ thực hiện đúng theo khoản 3 điều 27 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”.
1.3 Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con sau khi ly hôn
Tại khoản 2 điều 92 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định:[9] “ Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác”.
Ngoài ra, điểm d mục 11 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP quy định “Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai”.
Như vậy tại khoản 2 điều 92 của luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP vẫn chưa quy định hoặc chưa hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng; bởi cụm từ “căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con” vẫn còn chung chung. Thông thường, căn cứ theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP thì thẩm phán sẽ tập trung xem xét về sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và học hành của trẻ. Và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP vẫn chưa giải thích những gì cấu thành yếu tố “tinh thần”. Mặt khác, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định rằng khi tòa án quyết định giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi thì phải xem xét thêm điều kiện khác như có thuận lợi cho việc thăm nom cháu của những người thân thích khác (ông bà nội, ngoại, cô, chú, bác, cậu, dì) nhằm duy trì mối quan hệ gần gũi về huyết thống và mối quan hệ bạn bè ở khu dân cư, trường học của người con trong trường hợp này. Ví dụ: Trường hợp cha đang sinh sống tại thành phố Đà Nẵng, mẹ đang sinh sống ở tỉnh Cao Bằng. Nếu trong trường hợp cả cha và mẹ đều có điều kiện cho sự toàn diện của trẻ về thể chất, tinh thần, học hành mà Tòa án quyết định giao con chưa thành niên ở với cha tại thành phố Đà Nẵng thì sẽ tạo thuận lợi cho những người thân thích kể trên trong việc thăm nom vì những người này cùng sống ở thành phố Đà Nẵng, nhưng nếu tòa án quyết định cho người con này ở với mẹ tại tỉnh Cao Bằng thì sẽ gây nhiều khó khăn cho những người thân thích kể trên thăm nom cháu mình vì điều kiện đi lại khó khăn; bởi vì mọi thay đổi về nơi cư trú, môi trường sống mới, học tập ở một địa phương khác và sống cách xa những người thân thích đã từng gắn bó với mình thì có thể ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện tâm lý, tinh thần và kết quả học tập của trẻ em.
Ở khía cạnh khác, cũng tại khoản 2 điều 92 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định “Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”[10]. Đây là nghĩa vụ bắt buộc của tòa án khi giải quyết vụ án ly hôn, nếu có con từ đủ 9 tuổi trở lên thì tòa phải hỏi nguyện vọng của con là thích sống với cha hay thích sống với mẹ hơn. Thực tiễn thì quy định trên, tòa án gặp khó khăn trong những tình huống sau:
Một là, tòa án khó có thể gặp được trực tiếp người con từ đủ 9 tuổi trở lên vì có những trường hợp cha mẹ khi ly hôn không muốn con biết vì sợ tâm lý của con mình dễ bị tổn thương. Vì vậy, cha mẹ không cho con đến dự phiên tòa ly hôn.[11]
Hai là, không phải mọi trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên đều có đủ tự tin để trình bày nguyện vọng thực sự của mình trước tòa hay nguyện vọng này có thể bị chi phối bởi cha hoặc mẹ trước khi ra tòa. Vì vậy, trong trường hợp này, nếu trẻ em có tự trình bày nguyện vọng chăng đi nữa thì cũng có thể chưa xuất phát từ ý chí và nguyện vọng thực sự của các em.
1.4 Quyền thăm nom con sau khi ly hôn
Điều 94 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định:[12]
“Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.
Quy định này trong quá trình áp dụng thực hiện còn gặp những bất cập. Hiện nay vẫn chưa có văn bản dưới luật nào cụ thể hóa quy định trên. Các hành vi “cản trở” hoặc “gây ảnh hướng xấu” của một bên không trực tiếp nuôi con được hiểu như thế nào cho thống nhất? hay nói cách khác những loại hành vi nào được cho là “cản trở” hoặc “gây ảnh hưởng xấu” đến việc trông nôm, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con?
Trong trường hợp, nếu trong quá khứ người cha thường xuyên có hành vi bạo lực gia đình và việc thăm nom của người này có thể sẽ ảnh hưởng sự phát triển toàn diện tâm lý và tinh thần của trẻ em (vì khi gặp lại cha mình thì những hình ảnh bạo lực gia đình có thể sẽ tái hiện lại trong trí nhớ của trẻ), tuy nhiên, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa có quy định nào cấm hoặc hạn chế người cha (mẹ) quyền thăm con trong trường hợp người này từng có hành vi bạo lực gia đình trong quá khứ (đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi bạo lực gia đình). Nếu tòa án có quyết định hạn chế quyền thăm nom con sau khi ly hôn trong trường hợp trên thì hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, bởi quyền thăm nom con sau khi ly hôn chỉ bị Tòa án hạn chế khi “lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở và gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con”[13].
Từ những hạn chế và bất cập nêu trên, chế định ly hôn nên chăng cần sớm được hoàn thiện lại cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
2. Một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ly hôn
Một là, pháp luật nên quy định luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý đại diện cho con chưa thành niên (đối với người con từ đủ 9 tuổi trở lên khi được hỏi ý nguyện ở với cha hay mẹ) trong vụ án ly hôn
Nếu luật Hôn nhân và Gia đình có quy định luật sư hay trợ giúp viên pháp lý tham gia trợ giúp về mặt pháp lý cho người con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên trong vụ án ly hôn, thì thuận lợi cho người con thể thiện được quan điểm, ý muốn thực sự của mình là ở với cha hay mẹ khi được tòa án đề cập đến vấn đề này. Bởi vì không phải mọi trẻ em tự mình có thể đủ tự tin để trình bày quan điểm, nguyện vọng thực sự của mình trước sự nghiêm trang một phiên tòa. Luật cũng nên quy định cho phép luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý có quyền được gặp riêng người con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên để lắng nghe ý nguyện thực sự của người con này trước khi phiên tòa ly hôn được đưa ra xét xử. Và đồng thời luật sư hay trợ giúp viên pháp lý phải có nghĩa vụ giải thích cho người con hiểu các quy định của pháp luật về ly hôn và quyền của người con chưa thành niên đủ 9 tuổi trở lên được lựa chọn ở với cha hay mẹ. Ở khía cạnh khác, luật sư hay trợ giúp viên pháp lý đóng một vai trò như một chuyên gia tâm lý, chỗ dựa về tinh thần cho người con chưa thành niên để người con này thể hiện được quan điểm độc lập thực sự của mình trước tòa trong vụ án ly hôn mà không bị chi phối ảnh hưởng của bất kỳ ai và bất kỳ yếu tố nào. Nếu luật Hôn nhân và Gia đình quy định luật sư hay trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng trong trường hợp nêu trên thì quy định này cũng phù hợp với quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên của Công ước này “Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em, hoặc trực tiếp hay thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của luật pháp quốc gia.”[14]
Hai là, luật Hôn và Gia đình cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành cần quy định đầy đủ hơn các tiêu chí làm căn cứ (ngoài tiêu chí căn cứ vào công sức đóng góp vợ, chồng) trong việc phân chia khối tài sản chung của vợ chồng
Luật Hôn nhân và Gia đình nên hoàn thiện theo hướng là khi ly hôn, việc chia tài sản chung của vợ, chồng được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân còn tồn tại thì tòa án không những xem xét vào công sức đóng góp của vợ, chồng vào khối tài sản chung, mà còn phải xem xét chi phí cơ hội về thu nhập cao của một nghề nghiệp và thậm chí là có địa vị xã hội khi gắn bó với nghề nghiệp đó, mà người vợ hoặc người chồng đã từ bỏ để ở nhà chăm sóc gia đình, con cái. Ngoài ra, luật hôn nhân và gia đình cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành nên quy định là khi ly hôn, nếu nguyên nhân ly hôn là do hành vi bạo lực gia đình của người chồng (hoặc vợ) thì cho phép tòa án xem đó là một trong những tiêu chí làm căn cứ khấu trừ một phần tài sản riêng của người này, sau khi khối tài sản chung của vợ, chồng được phân chia. Phần tài sản bị khấu trừ sẽ được bồi hoàn cho người vợ hoặc chồng hoặc con là nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình này. Nếu luật Hôn nhân và Gia đình quy định như vậy, điều này vừa phù hợp với nguyên tắc của luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 “Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ”[15]; đồng thời vừa thực hiện đúng nguyên tắc phát huy mọi cơ quan, tổ chức trong việc phòng, chống bạo lực gia đình.[16] Trường hợp khác, nếu người vợ hoặc chồng khi thực hiện việc kinh doanh mà dùng tài sản chung (mà không có sự đồng ý của người kia) mà việc kinh doanh đó bị thua lỗ thì cũng nên bị khấu trừ một phần tài sản riêng của người này, sau khi đã chia khối tài sản chung của vợ, chồng; một phần tài sản bị khấu trừ được chuyển sang cho vợ (chồng) mà người này đã không đồng ý với việc kinh doanh đó, bởi tại điều 28 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 khẳng định rằng “Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này”.[17]
Ba là, cần quy định cho phép tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người cha hoặc mẹ sau khi ly hôn, nếu người này từng có hành vi bạo lực gia đình
Hiện nay, luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định quyền thăm nom con của cha, mẹ bị hạn chế trong trường hợp cha hoặc mẹ từng có hành vi bạo lực gia đình. Do đó, để đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và tâm lý của con đã được ghi nhận trong Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, thì điều 94 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 nên hoàn thiện theo hướng: Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con hoặc trường hợp người này đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi bạo lực gia đình thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Về nội dung này, theo quy định đạo luật Gia đình năm 1975 của nước Úc và trong thực tiễn xét các vụ án ly hôn thì các thẩm phán nước này đều có quyết định hạn chế quyền thăm nom con chưa thành niên của cha hoặc mẹ trong trường hợp người này có hành vi bạo lực gia đình nhằm đảm lợi ích tốt nhất cho con chưa thành niên.[18]
Nếu luật Hôn nhân và Gia đình nước ta sửa đổi theo hướng như vậy thì cũng góp phần thực hiện đúng theo quy định Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em “Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng trẻ em không bị cách ly cha mẹ trái với ý muốn của họ, trừ trường hợp những nhà chức trách có thẩm quyền chịu sự xem xét của pháp luật quyết định là theo luật pháp và các thủ tục áp dụng thì việc cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ em”.[19]
Cuối cùng, luật Hôn nhân và Gia đình nên quy định là trẻ em có quyền được gìn giữ mối quan hệ với những người thân thích và cần quy định cơ chế xác minh để xác định tài sản chung, riêng trong trường hợp cả vợ và chồng không có chứng cứ chứng minh tài sản riêng thay vì dùng phương pháp suy luận như hiện nay.
Theo khoản 3 điều 9 Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên, ghi nhận rằng các quốc gia thành viên phải tôn trọng mối quan hệ riêng tư của trẻ em. Vì vậy, có thể nói rằng, việc cho phép trẻ em quyền được duy trì mối quan hệ riêng tư cũng góp phần đảm bảo sự phát triển toàn diện của các em khi cha mẹ ly hôn. Nếu trường hợp cả cha và mẹ đều có điều kiện như nhau trong việc phát triển tâm lý, tinh thần và học hành của trẻ thì pháp luật nên cho phép Tòa án ưu tiên giao con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên ở với cha hoặc mẹ mà người này ở gần với những người thân thích, bạn bè ở khu dân cư và trường học của con, trên cơ sở xem xét nguyện vọng của con.
Ngoài ra, luật Hôn nhân và Gia đình nên quy định Tòa án phải tiến hành xác minh để phân định tài sản riêng, tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ, chồng đều không có chứng cứ chứng minh nhằm đảm bảo sự công bằng thay vì quy định rằng “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì đó là tài sản chung”.
Tóm lại, bên cạnh việc phát huy những giá trị tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, đất nước thì luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 còn tồn tại những bất cập trong chế định ly hôn. Khi Việt Nam đã là thành viên Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em thì những quy định của pháp luật trong nước cũng phải dần phù hợp với quy định của Công ước này. Đây là xu thế tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia. Ngoài ra, việc sửa đổi chế định ly hôn nhằm đảm bảo hơn quyền lợi của vợ, chồng và con chưa thành niên trong thực tiễn các vụ án ly hôn, cũng là tạo sự đồng bộ, thống nhất quy định của các luật khác nhau trong hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay.
[1] Tiến Sỹ Ngô Thị Hường, Giáo trình: Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, trang 50.
[2] Điều 13, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
[3] Điều 23, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
[4] Điều 42 Bộ luật dân sự năm 2005.
[5] Khoản 3 điều 27 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[6]Báo Gia đình.net.vn < http://giadinh.net.vn/2012040309161344p0c1005/ly-hon-toa-kho-xac-dinh-tai-san-chung-rieng.htm>.
[7] Báo Gia đình.net.vn < http://giadinh.net.vn/2012040309161344p0c1005/ly-hon-toa-kho-xac-dinh-tai-san-chung-rieng.htm>.
[8]Báo Gia đình.net.vn < http://giadinh.net.vn/2012040309161344p0c1005/ly-hon-toa-kho-xac-dinh-tai-san-chung-rieng.htm>.
[9] Khoản 2 điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[10] Khoản 2 điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[11] Tạp chí Sinh viên và khoa học pháp lý số 1: Một số vấn đề pháp lý về ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam < http://doanthanhnienluat.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1477>.
[12] Điều 94 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[13] Điều 94 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[14] Khoản 2 điều 12 Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em
[15] Khoản 3 điều 3 luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
[16] Khoản 4 điều 3 luật phòng, chống bạo lực gia đình.
[17] Khoản 3 điều 28 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
[18] Khoản 2 điều 60 CC luật Gia đình Úc 1975.
[19] Khoản 1 điều 9 Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em.
Thạc sỹ: Nguyễn Khắc Cường
Phòng Tư pháp, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Theo toaan.gov.vn
|