Từ 01/01/2015, Luật hôn nhân & gia đình 2014 (sau đây gọi gọn là Luật 2014) chính thức có hiệu lực và thay thế cho Luật hôn nhân & gia đình 2000 (sau đây gọi gọn là Luật 2000). So với Luật 2000 thì Luật 2014 có những điểm mới sau:
(i) Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 1 Luật 2000. Theo đó, quy định ngắn gọn, xúc tích về phạm vi điều chỉnh, bỏ phần nhiệm vụ trong Luật 2000 (nội dung này được lồng ghép vào những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân & gia đình).
(ii) Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân & gia đình
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 2 Luật 2000. Theo đó, về cơ bản giữ các nguyên tắc của Luật 2000, bổ sung nguyên tắc “xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ hạnh phúc”, “kế thừa phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân & gia đình”.
Luật 2014 bỏ nguyên tắc: “Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình”.
(iii) Điều 3. Giải thích từ ngữ
Điều này được sửa đổi bổ sung trên cơ sở Điều 8 Luật 2000. Theo đó, bổ sung thêm các từ ngữ mới như sau:
- Tập quán hôn nhân & gia đình (khoản 4).
- Chung sống như vợ chồng (khoản 7).
- Cản trở kết hôn, ly hôn (khoản 10).
- Kết hôn giả tạo (khoản 11).
- Yêu sách của cải trong kết hôn (khoản 12).
- Ly hôn giả tạo (khoản 15).
- Thành viên gia đình (khoản 16).
- Người thân thích (khoản 19).
- Nhu cầu thiết yếu (khoản 20).
- Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (khoản 21).
- Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (khoản 22).
- Mang thai hộ vì mục đích thương mại (khoản 23).
(iv) Điều 4. Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân & gia đình
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 3 Luật 2000. Theo đó, về cơ bản nội dung cũ được giữ nguyên, chỉ sắp xếp lại về mặt hình thức câu chữ.
(v) Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân & gia đình
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 4 Luật 2000. Theo đó, về cơ bản nội dung cũ được giữ nguyên và bổ sung các hành vi cấm sau:
- Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính.
- Lợi dụng việc thực hiện quyền hôn nhân & gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
Đồng thời bổ sung quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân & gia đình.
(vi) Điều 6. Áp dụng quy định của Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 5 Luật 2000. Theo đó, về cơ bản nội dung cũ được giữ nguyên chỉ sửa đổi “ luật về hôn nhân và gia đình” thành “Luật này”.
(vii) Điều 7. Áp dụng tập quán về hôn nhân & gia đình
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 6 Luật 2000. Theo đó, bổ sung quy định: “Chính phủ quy định chi tiết về vấn đề này” – Như vậy, nội dung này sẽ được hướng dẫn cụ thể bởi văn bản pháp luật từ Chính phủ.
(viii) Điều 8. Điều kiện kết hôn
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều Điều 9 & 10 Luật 2000. Theo đó, độ tuổi kết hôn đối với nữ là từ đủ 18 tuổi (Luật 2000 là từ 18 tuổi), nam là từ đủ 20 tuổi (Luật 2000 là từ 20 tuổi).
Luật 2000 cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, Luật 2014 sửa đổi thành: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”.
(ix) Điều 9. Đăng ký kết hôn
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 11 Luật 2000. Theo đó, điều này được quy định ngắn gọn lại và bỏ nội dung “Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa”. Như vậy, việc đăng ký kết được thống nhất trên toàn quốc.
(x) Điều 10. Người có quyền yêu cầu việc hủy kết hôn trái pháp luật
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 15 Luật 2000. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật được bổ sung thêm:
- Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình.
- Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em.
“Thay thế” cho Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
(xi) Điều 11. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 16 Luật 2000. Theo đó, quy định chi tiết và rõ ràng hơn Luật 2000. Đồng thời bổ sung một khoản: “Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp phối hợp thực hiện điều này”.
Như vậy, sẽ có văn bản hướng dẫn chi tiết về nội dung này.
(xii) Điều 12. Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 17 Luật 2000. Theo đó, về cơ bản nội dung này được giữ nguyên nhưng chỉnh sửa về mặt hình thức câu chữ. Ngoài việc, quy định giải quyết quyền lợi của các con thì Luật 2014 còn quy định “ giải quyết quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con”.
(xiii) Điều 13. Xử lý việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền thì khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước.
(xiv) Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
(xv) Điều 15. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
(xvi) Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
(xvii) Điều 17. Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 19 của Luật 2000. Theo đó, bổ sung đoạn “trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.
(xviii) Điều 18. Bảo vệ quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
Quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan được tôn trọng và bảo vệ.
(xix) Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều điều 18 của Luật 2000. Theo đó, bổ sung nội dung sau: “Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.
(xx) Điều 20. Lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 20 của Luật 2000. Về cơ bản nội dung này được giữ nguyên và bổ sung thêm từ “thỏa thuận” trong việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng.
(xxi) Điều 21. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 21 của Luật 2000. Theo đó, bỏ quy định “Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau” bởi khoản 1 đã bao hàm nội dung này.
(xxii) Điều 22. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 22 của Luật 2000. Theo đó, bỏ nội dung “không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào” bởi quy định “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau” đã bao hàm nội dung trên.
(xxiii) Điều 23. Quyền, nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 23 Luật 2000. Về cơ bản nội dung này được giữ nguyên và chỉnh sửa lại như sau:
“Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
(xxiv) Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 24 của Luật 2000. Về cơ bản nội dung được giữ nguyên nhưng thay đổi về cách trình bày câu chữ, ví dụ thêm nội dung mới “…xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan”.
(xxv) Điều 25. Đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
“1. Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.
2. Trong trường hợp vợ, chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh thì áp dụng quy định tại Điều 36 của Luật này”.
(xxvi) Điều 26. Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
“1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Luật này.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi”.
(xxvii) Điều 27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 25 Luật 2000. Theo đó, phạm vi chịu trách nhiệm liên đới mở rộng hơn Luật 2000.
(xxviii) Điều 28. Áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng
Đây là điều luật mới mang tính “quy định chung” trong mục chế độ tài sản của vợ chồng. Theo đó, Chính phủ sẽ quy định chi tiết về điều luật này.
(xxix) Điều 29. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường”.
(xxx) Điều 30. Quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
“1. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
2. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên”.
(xxxi) Điều 31. Giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng
Đây là điều luật mới. Theo đó, quy định như sau:
“Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng”.
(xxxii) Điều 32. Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng
“1. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.
2. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình”.
(xxxiii) Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 27 Luật 2000. Theo đó, nội dung “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng” không còn quy định trong điều luật này mà tách ra thành một điều mới.
Và bổ sung quy định: Tài sản chung được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
(xxxiv) Điều 34. Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung
Điều này được tách ra trên cơ sở điều 27 của Luật 2000. Theo đó, quy định chi tiết như sau:
“1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”
(xxxv) Điều 35. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 28 Luật 2000. Theo đó, quy định mới nổi bật sau:
“Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây: bất động sản; động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình”.
(xxxvi) Điều 36. Tài sản chung được đưa vào kinh doanh
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
“Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản”.
(xxxvii) Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
(xxxviii) Điều 38. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 29 Luật 2000. Theo đó, quy định mới là: “Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật”.
(xxxix) Điều 39. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
“1. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
2. Trong trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định.
3. Trong trường hợp Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
4. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
(xl) Điều 40. Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 30 Luật 2000. Theo đó, bổ sung quy định: “Thỏa thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba”.
(xli) Điều 41. Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
“1. Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Hình thức của thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật này.
2. Kể từ ngày thỏa thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33 và Điều 43 của Luật này. Phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
3. Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Trong trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận”.
(xlii) Điều 42. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.
(xliii) Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 32 Luật 2000. Theo đó, bổ sung quy định: “Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng”.
(xliv) Điều 44. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở điều 33 Luật 2000. Về cơ bản nội dung này được giữ nguyên, trong đó bỏ quy định: “Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng”.
(xlv) Điều 45. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
“Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng”.
(xlvi) Điều 46. Nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
“1. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng.
2. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó.
3. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
(xlvii) Điều 47. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
“Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”.
(xlviii) Điều 48. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
“1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:
a) Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;
c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
d) Nội dung khác có liên quan.
2. Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định”.
(xlix) Điều 49. Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
“1. Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản.
2. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận được áp dụng theo quy định tại Điều 47 của Luật này”.
(l) Điều 50. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
Đây là điều luật mới, theo đó quy định như sau:
BÀI CÙNG CHUYÊN MỤC: