Vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em là sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Nhà nước quy định.
Điều 228 Bộ luật hình sự quy định Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em:
1. Người nào sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều trẻ em;
luật sư hành chính
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng.
luat su hanh chinh
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
luat su nha dat
Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biêt, nhưng chỉ những người sử dụng lao động mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
luật sư nhà đất
Người sử dụng lao động có thể là chủ doanh nghiệp, nhưng cũng có thể chỉ là người đứng đầu các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân.
Khi xác định chủ thể của tội phạm này cần phân biệt trường hợp tuyển dụng với sử dụng trẻ em vào làm việc trong các cơ quan, tổ chức. Nếu người có trách nhiệm tuyển dụng không vi phạm pháp luật về việc tuyển dụng trẻ em để làm một công việc nhất định nhưng sau khi đã tuyển dụng trẻ em vào làm việc mà người sử dụng lao động trẻ em đã vi phạm các quy định của pháp luật thì người sử dụng lao động tre em mới là chủ thể của tội phạm này, nếu người tuyển dụng đồng thời là người sử dụng lao động trẻ em thì không cần phân biệt tuyển dụng hay sử dụng.
luat su thua ke
Nếu hành vi sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Nhà nước quy định chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới bị coi là tội phạm.
luật sư thừa kế
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em xâm phạm đến quyền lao động của trẻ em đã được quy định tại Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam tham gia quy định .
Việc sử dụng lao động trẻ em, Nhà nước ta quy định rất cụ thể, những loại công việc gì không được bắt trẻ em phải làm và những việc gì trẻ em được làm đều được quy định cụ thể và những quy định đó được liệt kê thành danh mục. Người sử dụng lao động phải căn cứ vào Danh mục do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
Đối tượng tác động của tội phạm này chính là trẻ em. Theo quy định tại ĐiềuLuật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì trẻ em là người chưa đủ 16 tuổi.
Khi xác định tuổi của trẻ em cần căn cứ vào các giấy tờ tuỳ thân như: Giấy khai sinh, Giấy chứng minh nhân dân (nếu họ đã làm chứng minh), Sổ hộ khẩu, Sổ hộ tịch, học bạ và các giấy tờ có liên quan khác. Trong trường hợp không có các giấy tờ tuỳ thân hoặc tuy có nhưng các giấy tờ này không gióng nhau về ngày tháng năm sinh thì phải điều tra xác định xem người lao động có phải là trẻ em hay không. Nghĩa vụ chứng minh là của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
luat su
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội thực hiện hành vi khách quan duy nhất là hành vi vi phạm quy định vềdụng lao động trẻ em nhưng được biểu hiện khác nhau tuỳ thuộc vào từng trường hợp vi phạm cụ thể như: Sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc; Sử dụng trẻ em làm những công việc nguy hiểm; Sử dụng trẻ em làm những công việc độc hại.
luật sư
- Sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc là sử dụng trẻ em làm những công việc như: Công việc tiếp xúc với dầu, mỡ; ảnh hưởng của môi trường nóng, ồn, rung và bụi than vượt tiêu chuẩn cho phép. (Sửa chữa cơ điện trong nhà máy sàng tuyển than. Thay mỡ, bơm dầu ổ trục các thiết bị nhà máy sàng tuyển than.)
van phong luat su
- Sử dụng trẻ em làm những công việc nguy hiểm là sử dụng trẻ em làm những công việc như: Thường xuyên làm việc trên cao, căng thẳng thần kinh tâm lý. (sửa chữa đường dây cao thế đang mang điện.)
- Sử dụng trẻ em làm những công việc độc hại là sử dụng trẻ em làm những công việc như: làm việc trong môi trường hoá chất độc hại và tiếng ồn cao; chịu tác động trực tiếp của hơi dầu nóng và hơi nước. (Thu hồi, lọc dầu, tái sinh dầu bôi trơn)
b. Hậu quả
văn phòng luật sư
Hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nếu người sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Nhà nước quy định chưa gây hậu quả nghiêm trọng và cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì không bị coi là tội phạm.
Hậu quả nghiêm trọng là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định vềdụng lao động trẻ em gây ra cho xã hội.
Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Nhà nước quy định gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả nghiêm trọng do sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Nhà nước quy định gây ra.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Ngoài các tình tiết về nhân thân, hành vi khách quan và hậu quả nhà làm luật còn quy định tình tiết khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, đó là: “Danh mục mà Nhà nước quy định về những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại” do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Do nước ta đang trong thời kỳ phát triển công nghiệp nên nhiều lĩnh vực, ngành nghề mới xuất hiện, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế cũng thường xuyên sửa đổi, bổ sung danh mục những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại cho phù hợp với tình hình phát triền kinh tế, xã hội. Vì vậy, khi xác định hành vi sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có thuộc danh mục do Nhà nước quy định hay không cần phải liên hệ với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế để nhận được sự hỗ trợ.
Ngoài ra, khi xác định hành vi phạm tội các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan đến việc sử dụng lao động đối với trẻ em như: Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, các văn bản hướng dẫn thì hành các Bộ luật này.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em là do cố ý, tức là biết người mà mình sử dụng lao động chưa đủ 16 tuổi và công việc giao cho trẻ em làm là công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc độc hại thuộc danh mục Nhà nước quy định. Nếu vì lý do khách quan mà người sử dụng lao động không biết người mà mình sử dụng lao động chưa đủ 16 tuổi và công việc giao cho trẻ em làm là công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc độc hại thuộc danh mục Nhà nước quy định thì không bị coi là hành vi phạm tội.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ luật hình sự
a. Phạm tội nhiều lần
Phạm tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em nhiều lần là thực hiện hành vi vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em từ hai lần trở lên và mỗi lần thực hiện hành vi đó đã cấu thành tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em nhưng tất cả các lần phạm tội đó đều bị xét xử trong cùng một bản án. Ví dụ: Ngày 10 tháng 2 năm 2004 Trần Văn Q đã bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em, nhưng ngày 20 tháng 5 năm 2004, Q lại sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc là phạm tội lần thứ nhất; đến ngày 15 tháng 12 năm 2004, Q lại sử dụng trẻ em làm công việc nguy hiểm gây hậu quả nghiêm trọng là phạm tội lần thứ hai, nên Trần Văn Q phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần”.
Khi xác định trường hợp phạm tội nhiều lần cần phân biệt với trường hợp phạm tội liên tục ở chỗ: phạm tội liên tục, là do một loạt hành vi phạm tội cùng loại, xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian tạo thành. Ví dụ: Vũ Văn T thuê cháu Nguyễn Thị H 15 tuổi để trông giữ con cho vợ chồng T. Nhưng ngoài việc trông giữ con cho T, cháu H còn phải làm việc nặng nhọc khác như bổ củi, đốt lò, gánh nước dẫn đến cháu H bị bệnh lao phải nằm điều trị dài ngày.
Khi xác định trường hợp phạm tội nhiều lần cần chú ý:
luậtt sư ly hôn
- Nếu hành vi vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em của bị cáo đã bị xử lý không kể bị xử lý bằng hình thức gì như: đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật... thì không tính lần phạm tội đó vào lần phạm tội sau để coi bị cáo phạm tội nhiều lần.
luat su ly hon
- Trường hợp, hành vi vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em đã được Viện kiểm sát miễn truy tố hoặc đã tách để xử lý ở vụ án khác thì cũng không coi là phạm tội nhiều lần.
b. Đối với nhiều trẻ em
Trường hợp phạm tội này tương tự như đối với trường hợp đối với nhiều người, nhưng nhiều người ở đây là trẻ em.
Phạm tội đối với nhiều trẻ em là trường hợp người phạm tội sử dụng từ hai trẻ em trở lên làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc độc hại theo danh mục do Nhà nước quy định; đối với mỗi trẻ em bị sử dụng lao động nặng nhọc, nguy hiểm hoặc độc hại chỉ xảy ra một lần và một lần đó đã cấu thành tội phạm.
Khi xác định trường hợp phạm tội này cần chú ý: Nếu người phạm tội sử dụng nhiều trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc độc hại nhiều lần hoặc có một trẻ em bị sử dụng lao động nặng nhọc, nguy hiểm hoặc độc hại nhiều lần và mỗi lần đều cấu thành tội phạm thì người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 của điều luật.
c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
Cũng như đối với một số tội phạm khác, nhà làm luật quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là hai trường hợp có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau trong cùng một khung hình phạt.
Hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất rất nghiêm trọng hoặc đặc biêt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định vềdụng lao động trẻ em gây ra cho xã hội.
Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Nhà nước quy định gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Nhà nước quy định gây ra.
luat su lao dong
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt từ hai năm đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng.
luật sư lao động
Khi quyết định hình phạt người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới hai năm tù hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn hoặc được áp dụng hình phạt tiền. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù.
3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng.
Khi áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội này cần chú ý:
- Chỉ áp dụng hình phạt bổ sung khi người phạm tội bị áp dụng hình phạt chính;
- Không áp dụng hình phạt bổ sung khi đã áp dụng hình phạt chính đối với người phạm tội là hình phạt tiền;
- Không được phạt dưới một triệu hoặc trên hai mươi triệu đồng.
Nguyễn Đan Quế
Trích "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự"