Một số cách hiểu khác nhau về dấu hiệu chiếm đoạt trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm sở hữu.
Thứ nhất, việc xác định mục đích chiếm đoạt có phải là dấu hiệu bất buộc trong các tội được quy định từ Điều 136 đến Điều 139 Bộ Luật hình sự hay không?
Dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được thể hiện qua 01 trong 02 hình thức là mục đích chiếm đoạt hoặc hành vi chiếm đoạt. Tuy nhiên, đối với các tội mà hành vi chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm thì mục đích chiếm đoạt có phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm cơ bản hay không cũng chưa có sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng. Hiện nay, có 03 quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong các tội từ Điều 136 đến Điều 139 Bộ Luật hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng, trong các tội từ Điều 136 đến Điều 139 Bộ Luật hình sự, do dấu hiệu chiếm đoạt là thuộc tính của hành vi phạm tội nên mục đích chiếm đoạt không phải là dấu hiệu bắt buộc trong các tội này. Quan điểm thứ ba cho rằng, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc đối với các tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản
Chúng tôi cho rằng, để đánh giá quan điểm nào phù hợp cần đánh giá mục đích của tội phạm thuộc mặt chủ quan của tội phạm và quy định của Bộ Luật hình sự về từng tội phạm cụ thể. Theo khoa học luật hình sự, mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: lỗi, mục đích phạm tội và động cơ phạm tội. Nếu như, lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì dấu hiệu mục đích chỉ có khi dấu hiệu hành vi chưa bộc lộ được dấu hiệu chiếm đoạt của tội phạm. Bởi vì, đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là dấu hiệu hiệu chiếm đoạ [16]. Trong khi đó, mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích không được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Có trường hợp, mục đích thể hiện trong hậu quả của tội phạm; có trường hợp chúng thể hiện qua hành vi phạm tội. Cho nên, mục đích của tội phạm chỉ được phản ánh (bắt buộc phải có) trong cấu thành tội phạm trong trường hợp dấu hiệu hậu quả, hành vi khách quan không phản ánh được mục đích của tội phạm thì khi đó, dấu hiệu mục đích mới bắt buộc phải có trong cấu thành tội phạm. Đối với trường hợp hành vi không phản ánh được mục đích của tội phạm thì mục đích bắt buộc trong cấu thành tội phạm có ý nghĩa trong việc phân biệt các hành vi khách quan của các tội có hành vi tương tự nhau.
Như phân tích bên trên, hành vi khách quan của các tội từ Điều 136 đến Điều 139 Bộ luật hình sự là giống nhau (đó là hành vi chiếm đoạt). Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức thực hiện hành vi gắn liền với hành vi chiếm đoạt có vai trò phân biệt hành vi chiếm đoạt của các tội khác nhau. Chính vì vậy, mục đích phạm tội (cụ thể là mục đích chiếm đoạt) không thể là dấu hiệu bắt buộc của các tội từ Điều 136 đến Điều 139 Bộ luật hình sự.
Chính vì chưa nắm rõ yếu tố này, mà thực tiễn khi không chứng minh được mục đích chiếm đoạt trong các tội từ Điều 136 đến Điều 139 mà cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng người đã thực hiện hành vi chiếm đoạt không phạm tội. Chẳng hạn, ngày 14/9/2012, anh S (thầu xây dựng Trường mẫu giáo A tại thị xã T) có thuê Đ lắp đặt đường dây điện của Trường. Trong khoảng thời gian thực hiện công việc, Đ chưa được trả công nên có yêu cầu anh S cho ứng tiền trước. Do anh S không ứng tiền trước nên khuya ngày 05/10/2012, Đ lén đột nhập vào kho của Công trình lấy 09 cuộn dây điện có tổng trị giá 20 triệu đồng mang về nhà cất giữ. Sáng ngày 05/10/2012, anh T (công nhân thực hiện việc khóa kho) phát hiện bị mất tài sản nên báo cho anh S biết. Anh S nói lại cho anh K (người làm công) biết việc mất trộm. Anh K gọi cho Đ thì được Đ cho biết Đ đã lấy các cuộn dây điện đó nhằm mục đích để anh S trả tiền công cho Đ.
Liên ngành tư pháp ở địa phương đã tiến hành họp về việc có truy cứu trách nhiệm hình sự Đ hay không và tất cả đã thống nhất không truy cứu trách nhiệm hình sự Đ do Đ không có mục đích chiếm đoạt các cuộn dây điện.
Chúng tôi cho rằng, cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đ về tội trộm cắp tài sản. Bởi vì, tội trộm cắp tài sản không bắt buộc phải chứng minh mục đích chiếm đoạt của người phạm tội bởi vì hành vi (chiếm đoạt) và thủ đoạn thực hiện đã phản ánh đầy đủ bản chất cũng như dấu hiệu cơ bản của tội này và là cơ sở để phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội phạm khác. Trong vụ án cụ thể trên, Đ đã có hành vi lén lút chiếm đoạt các cuộn dây điện. Tội phạm đã hoàn thanh khi Đ mang 09 cuộn dây điện ra khỏi kho của công trình. Rõ ràng hành vi của Đ là hành vi chiếm đoạt. Việc đánh giá ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải dựa vào hành vi khi thực hiện chứ không phải theo sự thừa nhận của người phạm tội. Hơn nữa, sau khi lấy tài sản Đ không hề cho ai biết và khi hành vi đã bị phát hiện thì Đ mới cho rằng mục đích lấy tài sản là để anh S trả tiền công cho mình. Hành vi của Đ đã đáp ứng tất các các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản. Trong trường hợp nếu anh S không báo công an, không trả tiền công cho Đ thì liệu Đ có trả lại số tài sản đã chiếm đoạt hay không. Không những thế, nếu không truy cứu trách nhiệm hình sự của Đ thì chẳng khác nào tiếp tay cho những hành vi chiếm đoạt tài sản kiểu này diễn ra trong thực tiễn'
Hơn nữa, nếu không truy cứu trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi chiếm đoạt sẽ tạo ra sự không công bằng trong việc áp dụng pháp luật. Chúng ta thấy rằng, trong thực tiễn, khi chủ nợ đến đòi nợ nhưng con nợ không trả và họ có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực lấy tài sản để trừ nợ thì chủ nợ bị truy cứu về tội cướp tài sản. Trong khi đó, hành vi lén lút chiếm đoạt trong 02 ví dụ trên còn dễ làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình vì họ không có điều kiện giữ lại tài sản của mình như trong tội cướp tài sản. Tuy nhiên, người thực hiện hành vi chiếm đoạt lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, việc xác định thời điểm hoàn thành của một số tội mà dấu hiệu chiếm đoạt là thuộc tính của hành vi phạm tội
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, do chưa nắm rõ quy trình thực hiện hành vi chiếm đoạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt mà việc xác định thời điểm hoàn thành của một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt không thống nhất.
Đối với tội cướp giật tài sản, thời điểm hoàn thành của hành vi hiện nay tồn tại 02 quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm hoàn thành của tội khi người phạm tội có hành vi chiếm đoạt. Ý kiến khác lại xác định, tội phạm chỉ hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Các quan điểm khác nhau này được thể hiện qua vụ án sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 07/10/2012, Nguyễn Văn T điều khiển xe gắn máy Airblade biển số 67N8 – 7477 chở Trần Văn Th (ngồi giữa), Huỳnh Văn M ngồi phía sau đi từ hướng kênh đào lên thị xã C để đi đến quán Karaoke Thảo Nguyên tiếp tục uống rượu. Khi đến khu vực phường VM, T điều khiển xe vượt qua phía bên trái xe của chị Huỳnh Thị H đang chạy cùng chiều. Cùng lúc này, M ngồi phía sau nhìn thấy trên cổ của chị H có đeo dây chuyền (trị giá 3.065.400 đồng) nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. M dùng tay giật đứt sợi dây chuyền của chị H và kêu T “chạy đi, chạy đi”. Sau khi bị giật dây chuyền, chị H truy hô “cướp, cướp” và đuổi theo M và T đến khu vực quán cà phê Vườn Táo thuộc khóm C thì xe của chị H đụng vào đuôi xe của T làm ngã xe. M cầm sợi dây chuyền bỏ chạy ra đồng. Chị H đuổi theo nhưng không bắt kịp. Riêng T và Th bỏ về nhà. Chị H đến Công an phường VM trình báo sự việc.
Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, tại phòng số 6 Karaoke Thảo Nguyên, M đưa cho T sợi dây chuyền và nói lại cho T nghe việc M giật dây chuyền của chị H và kêu T trả lại dây chuyền cho chị H, do chị H là người quen của T. T cất giử dây chuyền, đến khoảng 18 giờ ngày 08/10/2012 mang trả lại dây chuyền cho chị H.
Có 02 quan điểm khác nhau về thời điểm hoàn thành của tội phạm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm hoàn thành của tội phạm khi T chở M trốn thoát. Cho nên, hành vi của T là giúp sức để M thực hiện trót lọt hành vi phạm tội của mình. Bởi vì, mặc dù, giữa M và T không có sự thỏa thuận trước và khi M thực hiện hành vi chiếm đoạt T không biết. Tuy nhiên, khi nghe chị H truy hô và M kêu chạy đi thì T bỏ chạy. Cho nên, T phải là đồng phạm của M. Ý kiến thứ hai cũng là ý kiến của tác giả, trong vụ án trên, T không biết việc M thực hiện hành vi chiếm đoạt dây chuyền của chị H bởi vì M không bàn bạc trước với T và khi M thực hiện hành vi T không hề hay biết. Như phân tích bên trên, đối với tội cướp giật tài sản, khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm hữu cũng là lúc người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt (cả hai có cùng thời điểm). Cho nên, khi M thực hiện hành vi cướp giật thì tội phạm đã hoàn thành. Vì vậy, sau khi giật được tài sản, M kêu T chạy đi thì theo phản xạ tự nhiên T lái xe chạy. Việc T không dừng xe lại cũng chỉ có thể đánh giá T giúp M tẩu thoát chứ không thể quy kết T là đồng phạm với M. Nếu sau đó, T có được M chia lợi nhuận hoặc cất giấu tài sản giùm M thì T chỉ có thể phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS.
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tương tự tội cướp giật tài sản, thời điểm hoàn thành cũng có 02 quan điểm khác nhau. Đó là thời điểm phải chiếm đoạt được tài sản và thời điểm có hành vi chiếm đoạt. Điều này được thể hiện qua vụ án cụ thể sau: Nguyễn Hải V được vợ nhờ đi sửa chiếc đồng hồ. Khoảng 14 giờ ngày 21/6/2004, V nhờ bạn là Dương Thanh B chở đến Cửa hàng đồng hồ ở cùng thị trấn để lấy đồng hồ nhưng chưa sửa xong. Trên đường về nhà, khi đi qua hiệu đồng hồ ĐT, V nảy sinh ý định chiếm đoạt. V kêu B dừng xe, đứng ngoài chờ. V vào cửa hàng và yêu cầu cho xem 03 chiếc đồng hồ để chọn. Khi cầm đồng hồ, V nói với chủ tiệm đi ra ngoài để hỏi ý kiến anh họ. Lê Văn T (chủ cửa hiệu) đồng ý và đi theo. V liền chạy ra đường, lên xe kêu B cho xe chạy nhanh. T có đuổi theo nhưng không kịp.
Sau khi tẩu thoát, V thông báo cho B biết mình vừa lấy được 3 chiếc đồng hồ và cho B 01 chiếc. Giá trị 03 chiếc đồng hồ được định giá lá 1.050.000 đồng. Trong đó, đồng hồ V cho B trị giá 450.000 đồng.
Qua vụ án trên, ý kiến thứ nhất cho rằng, B là đồng phạm của V. Bởi vì, khi V chạy ra xe thì V chưa chiếm đoạt được tài sản. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu xét trên trục thời gian thì chúng có 03 giai đoạn là người phạm tội thực hiện hành vi gian dối, chiếm giữ tài sản và chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này, chủ tài sản vẫn còn đi theo nên tài sản chưa thoát ly khỏi chủ sở hữu. Khi V lên xe và B chạy đi thì khi đó tội phạm mới hoàn thành do V đã chiếm đoạt được tài sản. Khi V chưa chiếm đoạt được tài sản thì B có hành vi giúp V bỏ chạy nên B phải là đồng phạm với vai trò là người giúp sức. Ý kiến khác cho rằng, B chỉ phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì tội phạm đã hoàn thành khi V đi ra và nhảy lên xe kêu B chạy đi sau khi nhận tài sản từ T.
Chúng tôi thống nhất với ý kiến thứ 02. Bởi vì, đúng là đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hành vi chiếm đoạt có các giai đoạn như ý kiến thứ nhất. Tuy nhiên, sau khi V thực hiện hành vi chiếm giữ (nhận tài sản) từ T thì V đã đi ra ngoài rồi nhảy lên xe mô tô kêu B chạy. Thời điểm V kêu B chạy xe là thời điểm tội phạm đã hoàn thành. Việc V ngồi lên xe chỉ để tẩu thoát và B chạy xe chỉ theo lẽ tự nhiên. Do việc V vào cửa hàng, dùng thủ đoạn gian dối, thực hiện hành vi chiếm hữu, rồi tiến hành chiếm đoạt tài sản B không biết nên B không phải là đồng phạm của V. Trong khi, sau khi biết V chiếm đoạt 03 chiếc đồng hồ của T, B vẫn nhận 01 chiếc do V cho thì hành vi của B phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS là phù hợp.
Trong thực tiễn, việc đánh giá hành vi chiếm đoạt để xác định thời điểm hoàn thành của tội trộm tài sản cũng có sự thiếu thống nhất. Điều này được thể hiện qua vụ án sau: Thấy nhà ông Trần Văn B không có người, Nguyễn Văn A lén vào nhà lấy 01 điện thoại di động hiệu Nokia (trị giá 4.200.000 đồng) bỏ vào túi quần đi ra khỏi nhà. Tuy nhiên, khi A vừa ra khỏi nhà thì gặp Lê Văn T (người hàng xóm của B). T hỏi A vì sao lại vào nhà B thì A nói vào đó có chuyện rồi bỏ đi. Đến chiều cùng ngày, khi đi làm về nhà, B phát hiện bị mất điện thoại. B mang chuyện mất điện thoại kể lại cho T thì được T cho biết, vào buổi sáng có thấy A từ nhà B đi ra nhưng không rõ vào đó làm gì. B liền đi tìm A hỏi chuyện và yêu cầu A trả lại tài sản nhưng A không đồng ý mà đã đánh nhau với B rồi bỏ trốn cùng với điện thoại chiếm đoạt được.
Việc định tội danh với A có 02 quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, A phạm tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung ở khoản 2 Điều 138 “hành hung để tẩu thoát”. Quan điểm thứ hai xác định, hành vi của A phạm tội cướp tài sản vì có sự chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản khi A dùng vũ lực để tẩu thoát cùng với chiếc điện thoại chiếm đoạt được.
Chúng tôi không đồng ý với 2 ý kiến trên mà xác định A chỉ phạm tội trộm cắp tài sản. Bởi vì, tình tiết “hành hung để tẩu thoát” và chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản được hướng dẫn tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02. Tuy nhiên, việc áp dụng hướng dẫn tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 khi người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị phát hiện ngay lúc đó mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực chống lại để tẩu thoát thì mới áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu thoát” (trường hợp không có ý giữ tài sản cùng trốn thoát) hoặc có sự chuyển hóa sang tội cướp tài sản (trường hợp có ý giữ tài sản cùng trốn thoát). Đối với vụ án trên, từ lúc A thực hiện hành vi chiếm đoạt đến lúc A dùng vũ lực đối với B cách nhau khoảng thời gian dài. Khi đó, tội trộm cắp tài sản đã hoàn thành thời gian lâu nên không thể áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu thoát” và chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản như 02 ý kiến nêu trên.
Như vậy, việc hiểu dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt quy định từ Điều 133 đến Điều 140 Bộ Luật hình sự có ý nghĩa quan trong trong việc phân biệt nhóm tội này với các tội khác và tránh nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa các tội thuộc nhóm tội này với nhau, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử; đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, cơ quan và tổ chức.
Ths. Thái Chí Bình
|