Về nguyên tắc, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. Học thuyết nhiều nước đều thừa nhận chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
(i) Có hành vi vi phạm hợp đồng;
tim luat su gioi tphcm
(ii) Có thiệt hại thực tế;
(iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại.
luật sư giỏi tphcm
Người ta thường không xét đến yếu tố lỗi do lỗi trong trách nhiệm do vi phạm hợp đồng được suy đoán: ai vi phạm hợp đồng bị xem là có lỗi, nghĩa vụ chứng minh không có lỗi thuộc về bên vi phạm.
văn phòng luật sư
Bộ Luật dân sự (BLDS) không có điều khoản nào quy định cụ thể các điều kiện áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng nên việc áp dụng chế tài này phải quay về quy định chung nằm trong Phần 3 – Chương 17 – Mục 3 – Trách nhiệm dân sự (các Điều từ 300 đến 310 BLDS). Mặc dù không có điều luật nào liệt kê đầy đủ các căn cứ của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng như Điều 303 Luật Thương mại (LTM), nhưng qua tinh thần các điều luật này, có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi:
(i) Có hành vi vi phạm hợp đồng (Điều 302 khoản 1 BLDS);
luật sư uy tín
(ii) Có thiệt hại thực tế, bao gồm thiệt hại về vật chất và tổn thất về tinh thần (Điều 307 BLDS);
(iii) Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại (Điều 307 BLDS);
luật sư ly hôn giỏi
(iv) Có lỗi (Điều 308 BLDS), tuy nhiên lỗi cũng được suy đoán (Điều 302 khoản 3 BLDS).
Dưới đây, tập trung nghiên cứu các căn cứ này.
luat su
1. Có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
(i) Có sự tồn tại hợp đồng và có sự tồn tại nghĩa vụ vi phạm
luật sư hình sự giỏi
Đương nhiên, đây là điều kiện tiên quyết để có thể áp dụng trách nhiệm dân sự trong hợp đồng (cho dù đó là chế tài buộc thực hiện hợp đồng, hủy, đình chỉ hợp đồng hay phạt hợp đồng). Trước tiên, phải làm rõ sự vi phạm bắt nguồn từ một nghĩa vụ trong hợp đồng có hiệu lực và nghĩa vụ thuộc về bên vi phạm. Thông thường, các nghĩa vụ hợp đồng có thể phát sinh từ các thỏa thuận của các bên (điều khoản thỏa thuận ), nhưng nếu các bên im lặng về một vấn đề nào đó thì sẽ được suy đoán là về vấn đề này, các bên đã ngầm thỏa thuận chịu sự chi phối của luật (điều khoản luật định ). Chẳng hạn, nếu các bên không thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp thì sẽ áp dụng các quy định của luật pháp để xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Sự phức tạp sẽ đến nhiều hơn từ việc xác định nội dung các điều khoản thỏa thuận của các bên. Nhiều trường hợp, các thỏa thuận là các thỏa thuận ngầm. Thực tế, chúng ta vẫn gặp các điều khoản “nằm ngoài ” hợp đồng chính, ví dụ như nội quy của một nơi trông giữ xe… Liệu những quy định này có được coi là điều khoản của hợp đồng để ràng buộc trách nhiệm của các bên? Trong nhiều trường hợp khác, các điều khoản viết trong hợp đồng lại không rõ ràng, tối nghĩa hoặc mâu thuẫn nhau, đòi hỏi thẩm phán phải giải thích hợp đồng. Khi giải thích hợp đồng, thẩm phán phải căn cứ vào các nguyên tắc của giải thích hợp đồng được quy định tại Điều 408 BLDS.
(ii) Có hành vi vi phạm nghĩa vụ:
Hành vi vi phạm nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó, thể hiện dưới các hình thức sau:
- Từ chối thực hiện nghĩa vụ, ví dụ, từ chối giao hàng, từ chối thanh toán tiền, từ chối làm một công việc đã hứa.
luật sư bào chữa giỏi tphcm
- Chậm thực hiện nghĩa vụ: ví dụ, bên nhận vận chuyển hàng có nghĩa vụ giao hàng ngày X nhưng đã giao hàng chậm vào ngay Y.
- Thực hiện một phần nghĩa vụ, ví dụ, bên bán có nghĩa vụ giao 1000 chiếc xe đạp hiệu X vào ngày 05/01/2007 nhưng vào ngày này, bên bán chỉ giao 500 chiếc xe.
- Thực hiện không đúng nghĩa vụ, thường là liên quan đến chất lượng sản phẩm hoặc công việc là đối tượng của nghĩa vụ, chẳng hạn, trong số 1000 xe đạp hiệu X giao cho bên mua, có nhiều chiếc không sử dụng được.
luật sư nhà đất
- Không thực hiện một nghĩa vụ: Trong một hợp đồng có rất nhiều nghĩa vụ, trong đó có các nghĩa vụ thứ yếu. Thông thường, chỉ hành vi vi phạm nghĩa vụ chính mới dẫn đến kết luận là việc thực hiện toàn bộ hợp đồng đã bị vi phạm. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán, nghĩa vụ giao hàng và nghĩa vụ thanh toán tiền được coi là nghĩa vụ chính. Vậy, điều gì sẽ xảy ra nếu người có nghĩa vụ đã hoàn thành nghĩa vụ chính nhưng lại không thực hiện một nghĩa vụ phụ. Chẳng hạn, A đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng và chất lượng cho B, nhưng do nhầm lẫn, thay vi giao hàng tại địa điểm Z thì A lại giao hàng tại địa điểm K. B sẽ có quyền coi việc thực hiện toàn bộ hợp đồng đã bị vi phạm nếu chỉ ra được việc thực hiện nghĩa vụ phụ này có ý nghĩa không thể thiếu được cho lợi ích mà hợp đồng mang lại cho B. Ví dụ, chính tại địa điểm Z là địa điểm mà B có nghĩa vụ phải giao hàng tiếp cho C và việc vi phạm của A đã dẫn tới thiệt hại cho B trong quan hệ hợp đồng với C. Trong các trường hợp khác, trách nhiệm của người vi phạm chỉ liên quan đến nghĩa vụ phụ bị vi phạm chứ hợp đồng không bị coi là không thực hiện toàn bộ.
2. Có thiệt hại xảy ra
Thông thường, thiệt hại yêu cầu bồi thường do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là thiệt hại về vật chất nhưng BLDS cũng cho phép yêu cầu bồi thường các thiệt hại về tinh thần, Điều 307 BLDS quy định thiệt hại phải là thiệt hại thực tế , tính được thành tiền.
(i) Tính toán tiền bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc chung
luat su nha dat
Về mặt nguyên tắc, số tiền mà Tòa án buộc bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm phải bù đắp được mọi tổn thất mà người này phải gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng. Nói cách khác, số tiền bồi thường thiệt hại cho phép đặt người có quyền bị vi phạm vào hoàn cảnh mà lẽ ra người này được hưởng nếu người có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng. Chính bởi vậy, thiệt hại mà bên vi phạm nghĩa vụ phải trả còn gọi là thiệt hại đền bù hay thiệt hại bù trừ. Đây cũng là sự thể hiện nguyên tắc bồi thường toàn bộ restitutio in integrum đã được luật pháp thế giới thừa nhận. Theo thông lệ trên thế giới, tiền bồi thường thiệt hại sẽ bao gồm hai loại: tổn thất đã xảy ra và khoản lợi lẽ ra thu được từ hợp đồng. Việc chứng minh tổn thất đã xảy ra không quá phức tạp nếu so với việc chứng minh khoản lợi lẽ ra thu được từ hợp đồng. Tòa án là người có toàn quyền quyết định chấp nhận hay không chấp nhận khoản lợi lẽ ra thu được từ hợp đồng. Thông thường, yêu cầu bồi thường những khoản lợi không chắc chắn, quá xa xôi về mặt thời gian hoặc phụ thuộc vào nhiều may rủi đều bị Tòa án từ chối.
LTM, cũng như LTM 1997 đã theo cách tiếp cận này của thế giới. Tuy nhiên, Điều 307 khoản 2 BLDS không phân định rạch ròi tổn thất đã xảy ra và khoản lợi lẽ ra thu được từ hợp đồng mà chỉ quy định 3 loại thiệt hại được yêu cầu bồi thường bao gồm tổn thất về tài sản: chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút. Tổn thất về tài sản có thể là giá trị số tài sản bị mất, bị hư hỏng, tiền lãi phải trả ngân hàng, tiền bị phạt vi phạm hợp đồng hoặc tiền bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải trả cho bên thứ ba do hậu quả trực tiếp của sự vi phạm hợp đồng gây ra… Vấn đề khó khăn ở chỗ, liệu thu thập thực tế bị mất, bị giảm sút có đồng nghĩa với khoản lợi trực tiếp lẽ ra thu được từ hợp đồng không? Điều 307 BLDS không có quy định nào tương tự như Điều 301 khoản 2 LTM,
(ii) Tính toán tiền lãi đối với số tiền chậm trả trong nghĩa vụ trả tiền
Điều 305 khoản 2 BLDS nêu lên nguyên tắc: trong trường hợp người có nghĩa vụ chậm trả tiền thì người đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
luật sư gia đình
Ngoài hợp đồng vay tài sản, nghĩa vụ trả tiền có thể phát sinh từ rất nhiều hợp đồng khác. Chẳng hạn, nghĩa vụ trả tiền cho bên bán trong hợp đồng mua bán, nghĩa vụ thanh toán tiền thuê khoán trong hợp đồng thuê khoán… Số tiền lãi trên khoản tiền chậm trả luôn được tính là một khoản bồi thường mà người có quyền không phải chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra. Tiền luôn được coi là tài sản sinh lợi, vì vậy bên có quyền được hưởng tiền lãi chậm trả để bù đắp khoản sinh lợi lẽ ra được hưởng trong thời gian chậm trả đó.
3. Có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
Thực chất, điều kiện này chính là điều kiện về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra: nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại xảy ra xuất phát trực tiếp từ nguyên nhân là hành vi vi phạm. Vì vậy, các loại thiệt hại gián tiếp sẽ không được xem đến khi tính toán mức bồi thường.
Trong các tranh chấp hợp đồng, các thiệt hại gián tiếp không được xem xét thường là các thiệt hại nằm ngoài việc thực hiện hợp đồng, hoặc quá xa với hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. Ngoài ra, khi xác định thiệt hại, luật pháp nhiều nước còn áp dụng nguyên tắc người có quyền bị vi phạm phải có nghĩa vụ ngăn chặn hoặc hạn chế thiệt hại khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ (minimisation des dommages hay mitigation of damages ) và nguyên tắc thiệt hại xảy ra phải là thiệt hại mà các bên có thể lường trước hay tiên liệu được (dommages previsible s hay previsible damages ) khi ký kết hợp đồng. Vì vậy, Tòa án thường không chấp nhận yêu cầu bồi thường của nguyên đơn đối với những thiệt hại lẽ ra người này đã có thể tránh được nếu đã có hành động ngăn chặn hoặc hạn chế thiệt hại. Tương tự như vậy đối với những thiệt hại mà các bên đã không thể lường trước được khi ký kết hợp đồng.
BLDS không có điều luật nào quy định nguyên tắc người có quyền bị vi phạm phải có nghĩa vụ ngăn chặn hoặc hạn chế thiệt hại khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ nhưng Điều 305 LTM quy định bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.
4. Người vi phạm nghĩa vụ có lỗi
Lưu ý rằng chỉ có BLDS quy định điều kiện này còn LTM không coi lỗi là căn cứ của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Theo Điều 308 khoản 1 BLDS, người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Nhưng theo Điều 302 khoản 3 BLDS, lỗi của người vi phạm nghĩa vụ là lỗi suy đoán . Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc, bên có quyền chỉ cần chỉ ra hành vi vi phạm của bên kia (không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ) mà không phải chứng minh lỗi vì việc chứng minh không có lỗi thuộc trách nhiệm của người vi phạm. Có thể hình dung qua thí dụ sau: A và B ký kết hợp đồng mua 1000 tấn xi măng theo đó A có nghĩa vụ giao toàn bộ số hàng vào ngày 10 tháng 4 năm 2006. Nếu đến ngày 10 tháng 4 năm 2006 mà bên A không giao hàng cho bên B thì B có quyền đòi bồi thường thiệt hại mà không cần phải chứng minh hành vi không giao hàng của A là hành vi có lỗi. Muốn khước từ trách nhiệm, bên A phải chứng minh thiệt hại đó rơi vào các trường hợp được miễn giảm trách nhiệm dân sự. Vậy, những trường hợp nào là trường hợp mà bên vi phạm nghĩa vụ được miễn, giảm trách nhiệm dân sự?
Các căn cứ miễn trách nhiệm dân sự do luật pháp quy định:
Căn cứ vào Điều 302 khoản 2 và 3 BLDS, người có nghĩa vụ có thể chứng minh mình không có lỗi, do đó không chịu trách nhiệm dân sự trong hai trường hợp: (i) việc không thực hiện nghĩa vụ là do sự kiện bất khả kháng hoặc (ii) do lỗi của người có quyền gây ra.
Ngoài hai căn cứ trên, LTM quy định thêm một trường hợp miễn trách nhiệm khi hành vi vi phạm của một bên là do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Phải chăng trường hợp này cũng được quy định vào nguyên nhân sự kiện bất khả kháng. Thực tế, BLDS không đưa ra định nghĩa nào về sự kiện bất khả kháng. Thông thường, một sự kiện được coi là sự kiện bất khả kháng khi: (1) Sự kiện đó xảy ra sau khi ký hợp đồng; (2) Sự kiện đó nằm ngoài ý chí của các bên, vì vậy, nằm ngoài hoạt động của các bên trong hợp đồng. Ví dụ, người chuyên chở hàng bằng xe tải không thể viện dẫn sự cố hỏng xe là một sự kiện sự kiện bất khả kháng bởi vì trong một chừng mực nào đó, người chuyên chở hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về sự vận hành của chiếc xe mà anh ta là chủ sở hữu hoặc là người chiếm hữu hay quản lý; (3) Sự kiện đó không thể lường trước được, chẳng hạn như thiên tai, hỏa hoạn…; (4) Sự kiện đó không thể khắc phục được, nghĩa là mọi sự cố gắng của người có nghĩa vụ nhằm khắc phục sự cố đều trở nên vô nghĩa.
Các căn cứ miễn trách nhiệm dân sự do các bên thỏa thuận – điều khoản miễn giảm trách nhiệm dân sự:
Trên thực tế, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng điều khoản miễn giảm trách nhiệm dân sự cho việc vi phạm một nghĩa vụ nào đó trong hợp đồng. Ví dụ, thẩm phán có thể gặp trong hợp đồng điều khoản quy định bên bán không chịu trách nhiệm gì về mọi khuyết tật (kể cả ẩn giấu) của hàng bán. Từ lâu, học thuyết và án lệ nhiều nước đã bàn cải rất sôi nổi về hiệu lực pháp luật của các điều khoản miễn giảm trách nhiệm dân sự, bởi lẽ, sự tồn tại của điều khoản này thực sự đã nằm ở ranh giới xung đột giữa hai nguyên tắc căn bản trong dân luật là nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận và tự do ý chí của các bên (các bên được tự do thỏa thuận, miễn sao không vi phạm trật tự công) và nguyên tắc trách nhiệm dân sự (một người không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng hay theo quy định của pháp luật mà gây thiệt hại thì phải bồi thường) . Hiện nay, án lệ Pháp đã chấp nhận hiệu lực của các điều khoản miễn giảm trách nhiệm, song có ba trường hợp thẩm phán được quyền can thiệp để giới hạn mức độ của điều khoản miễn giảm trách nhiệm, thậm chí tuyên điều khoản này vô hiệu:
(1) Bên vi phạm nghĩa vụ có hành vi gian dối;
(2) Đó là hợp đồng giữa một bên chuyên nghiệp (thương nhân) và một bên không có tính chất chuyên nghiệp (người tiêu dùng),
(3) Một số loại giao dịch mà pháp luật cấm các bên thỏa thuận về điều khoản này.
Vấn đề trên, pháp luật Việt Nam hiện vẫn chưa có quy định rõ.